Pain Of Salvation-Kingdom Of Loss

Trong tất cả các thể loại Metal, dòng nhạc bác học Progressive Metal là khó nuốt hơn cả. Đây là thể loại ít ban nhạc chơi nhất, bán ít dĩa nhất, đòi hỏi nhều thời gian để nghiềm ngẫm nhất và cả sự thông minh của người nghe. Ngồi những yêu cầu khắt khe về kỹ thuật, hiểu biết sâu rộng về xã hội, văn hội. Các nghệ sĩ chơi thể loại này thường là những sinh viên xuất sắc, tốt nghiệp thủ khoa tại các trường nhạc hoặc cĩ sự đam mê sâu sắc từ nhỏ.


Đi đầu thể loại này có thể ví dụ nhóm Fates Warning, Watchtower của Mỹ, sau đó là Dream Theater, Symphony X. Mặc dù không phải quê hương của Progressive Metal, nước Mỹ lại đi đầu trong việc phổ biến rộng thể loại Metal đầy kỹ thuật này. Gần đây, các ban nhạc châu Âu bắt đầu cạnh tranh mạnh mẽ với người Mỹ. Một số ban nhạc của Đức, Ý, Bắc Âu và một số ít ban nhạc Đơng Aâu mới xuất hiện chơi rất hay. Trong số các ban nhạc châu Âu, Pain Of Salvation là đại diện tiêu biểu và vô cùng xuất sắc.

Muốn tìm hiểu gốc rễ ban Progressive Metal Pain Of Salvation, cần phải lấy thời điểm năm 1984, tay guitar kiêm ca sĩ Daniel Gildenlow thành lập ban nhạc Reality khi mới 11 tuổi. Mặc dù rất trẻ, họ vẫn thu hút sự chú ý nhất định của các phương tiện truyền thông.

Mùa thu năm 1987, Reality là ban nhạc trẻ tuổi nhất tham dự hội thi “Rock-SM” và Daniel Gidenlow đạt giải ca sĩ hay nhất.

Năm 1991, ban nhạc lấy tên “Pain Of Salvation”, lúc này họ là ban nhạc sinh viên tại trường đại học Gothenburg. Trong thời gian từ 1991 đến 1994, nhóm viết một vài ca khúc ngắn. Một số bài hát được hoàn chỉnh về sau khi họ ghi âm dĩa đầu tay “Entropia”.

Năm 1994, em trai Daniel là Kristoffer Gildenlow tham gia ban nhạc. Thành phần ban nhạc ổn định gồm Daniel Gildenlow (ca sĩ chính/guitar), Kristoffer Gildenlow (bass), Fredrik Henmansson (keyboard), Johan Langell (trống) và Johan Hallgell (guitar).

Thành phần ổn định, ban nhạc ghi âm dĩa đầu tay “Entropia” . Tại châu Âu hãng Roasting House phát hành, tại Nhật Bản do hãng Marquee/Belle Antique. “Entropia” nhận được nhiều lời khen ngợi của các tạp chí.

Tháng 1 năm 1999, tuyệt phẩm “One Hour By The Concrete Lake” ra đời, nội dung dĩa này phỏng theo bài tiểu luận “Waterwar” của Daniel Gildenlow khi anh học tại trường đại học Gothenborg. Tuyệt phẩm này được đánh giá 100/100 tại hầu hết các tạp chí. Ban nhạc có 3 tuần biểu diễn quanh châu Âu. Ngay năm sau, họ lại cho ra một tuyệt phẩm nữa “Perfect Element”. Họ làm tất cả những ai thích Progressive Metal phải kinh ngạc.

Mặc dù rất thành công nhưng Pain Of Salvation vẫn là một nhóm Progressive Metal nghiệp dư, ngoài chơi nhạc, các thành viên còn làm việc chuyên môn riêng. Thỉnh thoảng họ mới có một chuyến biểu diễn ngắn ngày. Dù rằng như vậy nhưng tài năng của họ chắc chắn không hề thua kém bất cứ một nhóm chuyên nghiệp nào. Dĩa mới nhất “Remedy Lane” phát hành năm 2002 đã chứng minh điều đó. Cùng với “The Odyssey” của Symphony X là hai dĩa “Progressive Metal” hay nhất trong năm.

Entropia-InsideOut Music-1997

entropia.jpg

 

1. ! (Foreword)
2. Welcome To Entropia
3. Winning A War
4. People Passing By
5. Oblivion Ocean
6. Stress
7. Revival
8. Void Of Her
9. To The End
10. Circles
11. Nightmist
12. Plains Of Dawn
13. Leaving Entropia (Epilogue)

Bán đảo Scandinavia được biết đến trong vòng 10 năm trở lại đây với lực lượng hùng hậu đội quân thiện chiến Death/Black Metal. Nhưng không chỉ có vậy, hầu như tất cả các thể loại Metal đều có những ban nhạc xuất chúng đến từ Scandinavia, Progressive Metal cũng không phải ngoại lệ. Các ban nhạc tiêu biểu có thể kể đến là Spiral Architect của Na Uy, và Pain of Salvation của Thụy Điển. Spiral Architect chỉ mới có một dĩa “A Sceptic” vào năm 2000, còn Pain Of Salvation thực sự là một hiện tượng mới của Progressive Metal ngay khi họ cho ra dĩa đầu tay “Entropia”.

Entropia là thế giới tưởng tượng của Daniel Gildenlow, khi nhìn xuyên qua ánh mắt ngây thơ một đưá trẻ, bên trong đó là một thế giới đầy rẫy chiến tranh. Nội dung dĩa xoay quanh một gia đình, người cha ra trận, đứa trẻ ở nhà với mẹ. “Why, mommy? Tell me why daddy is walking away – leaving me!”—“Winning A War”.

Pain Of Salvation hay bất cứ một nhóm Progressive Metal xuất sắc nào khác không phải để nghe trong 2, 3 ngày, sự kiên nhẫn là điều kiện đầu tiên khi thưởng thức Progressive Metal. Entropia đòi hỏi một tuần lễ để nghiềm ngẫm. Âm nhạc vô cùng đặc sắc. Guitar và keyboard thì thầm truyền tải câu chuyện. Trống, bass đầy kỹ thuật, uốn lượn như sóng vỗ bờ. Ngoài kỹ thuật siêu hạng của các thành viên, giọng hát đầy cảm xúc của ca sĩ đem lại hiệu ứng tuyệt vời trong mỗi ca từ, khi cần giọng của anh rất nhẹ nhàng, hoà nhã, khi khác lại mạnh mẽ, ồn ào. Daniel Gildenlow không chỉ là một nhạc sĩ, ca sĩ giỏi mà anh còn là một nhà thơ kịch, lời nhạc của anh viết rất rối rắm, trừu tượng, và mang ý nghĩa ẩn dụ. Entropia phức tạp cả nhạc lẫn lời. Từ ngữ và âm nhạc thật sống động, chứa đầy cảm xúc. Người nghe chỉ nhận thấy điều này sau khi học cách nghe nhạc. Tôi khong cho rằng Progressive Metal dành cho những người nghe thông minh, tuy nhiên thời gian bỏ ra để học nghe là bắt buộc với bất cứ ai. Thật đáng tiếc khi bỏ qua một sản phẩm âm nhạc kỳ vĩ. Entropia giới thiệu một ngôi sao Progressive Metal mới. Một dĩa nhạc rất xứng đáng đầu tư thời gian thưởng thức.

One Hour By The Concrete Lake-InsideOut Music-1999

one.jpg

1. Spirit Of The Land
2. Inside
3. The Big Machine
4. New Year’s Eve
5. Handful Of Nothing
6. Water
7. Home
8. Black Hills
9. Pilgrim
10. Shore Serenity
11. Inside Out

Sau khởi đầu thành công với “Entropia”, Pain Of Salvation làm tất cả những ai yêu thích Progressive Metal rung động với tuyệt phẩm Progressive Metal cho mọi thời đại “One Hour By The Concrete Lake”. Tất cả những từ ngữ mỹ miều như “kinh ngạc”, “quá tuyệt vời” đều chưa đủ khi khen ngợi “One Hour By The Concrete Lake”. Tuyệt vời cả về nhạc lẫn lời.

Nội dung dĩa dựa theo bài tiểu luận “Waterwar” của Daniel Gildenlow khi anh còn học tại đại học Gothenburg và một số bài báo của các nhà khoa học môi trường. Daniel Gildenlow viết về thảm hoạ hạt nhân tại hồ Karachay ở Thụy Điển. Hồ này dùng chứa chất thải hạt nhân, nên ô nhiễm nghiêm trọng. Sau đó, chính phủ đổ bê tông che lại. Ô nhiễm quanh hồ nặng đến mức chỉ cần ở đó một giờ đồng hồ không có quần áo bảo hiểm sẽ bị nhiễm phóng xạ rồi chết sau vài tuần lễ. Lời nhạc cực kỳ thông minh, nói lên vấn đề ô nhiễm môi trường nhức nhối nhiều năm gần đây. Daniel còn nói về tai họa chiến tranh.

[Since 1990 there have been 93 wars in 70 states all around the world, with 5.5 million people dead. 75% of these people were civilians, 1 million of them were children…]

Dĩa viết theo bố cục như một câu chuyện: mở đoạn bằng “Inside” và kết đoạn bằng “Inside Out”.

“One Hour…” có đầy đủ tất cả những đặc điểm của Progressive Metal hiện đại. Nhịp trống, guitar, bass, keyboard nhiều lúc khác nhau hoàn toàn, nhịp điệu nhảy loạn xạ. Kỹ thuật của ban nhạc vô cùng điêu luyện, họ sẽ mê hoặc bạn bằng những ngón đàn thần sầu. Death hay Black Metal cuốn hút với âm thanh mạnh bạo, Progressive Metal hấp dẫn bằng những ngón nghề cực kỳ tinh xảo. Tất cả những gì tuyệt vời nhất của Progressive Metal có tại “One Hour By The Concrete Lake”. Có rất nhều bài hát hay, bạn nên chú ý kỹ đến bài số 2, 6,7, 9 và 11 và bạn cần có nhiều thời gian suy ngẫm để thích “One Hour…”. Tất cả các thành viên đều xuất chúng, đặt biệt là tài năng siêu việt của ca sĩ kiêm sáng tác chính Daniel Gildenlow, anh có thể hát rất hay nhiều khoảng âm từ thấp đến cao, trầm hay trong… Trong số 4 dĩa của Pain Of Salvation cho đến nay, “One Hour…” và “Entropia” nổi trội hơn “Perfect Element” và “Remedy Lane” ở chất liệu Metal mạnh mẽ.

Bạn có thể cho “One Hour By The Concrete Lake” vào bộ sưu tập “Top 10” Progressive Metal hay nhất mọi thời đại. Xin trân trọng giới thiệu “One Hour By The Concrete Lake” cho cả những ai chưa biết Progressive Metal là gì. Kết lại dĩa nhạc xuất sắc bằng lời cảnh báo của nhà môi trường Lorraine Rekman được Gildenlow trích dẫn, đừng để mọi chuyện quá muộn không thể sửa chữa được, đừng để thế hệ sau trách móc:

“I dread the day my children will ask me why. I dread the day when I will have to explain to them that people thought it was acceptable to destroy the environment so that we could have jobs.”

The Perfect Element-InsideOut Music-2000

perfect.jpg

1. Used
2. In The Flesh
3. Ashes
4. Morning On Earth
5. Idioglossia
6. Her Voices
7. Dedication
8. King Of Loss
9. Reconciliation
10. Song For The Innocent
11. The Perfect Element

Sau tuyệt phẩm cho mọi thời đại “One Hour By The Concrete Lake”, Pain Of Salvation tiếp tục làm người nghe phát điên với “The Perfect Element-Part 1”. Có lẽ thua kém một chút với “One Hour…”, “The Perfetc Element” xứng đáng bằng điểm với “Entropia”. Trong dĩa này, nhạc của Pain Of Salvation dịu đi chút ít so với hai dĩa trước, nhưng lời nhạc tiến lên cấp độ tư duy cao hơn. Họ làm cho khán giả phải nát óc suy nghĩ khi thưởng thức.

Tại sao Progressive tuy dễ nghe mà rất khó cảm nhận? Vì nội dung câu chuyện đôi lúc quá phức tạp, nhạc cụ chạy nhịp loạn xạ không theo một khuôn mẫu nào. Mang đầy đủ những đặc điểm trên, mỗi bài hát trong dĩa này là một chuỗi những cảm xúc phức tạp, rối rắm khác nhau được các nhạc công liên kết vô cùng hoàn hảo và giọng hát cực truyền cảm của Gildenlow làm thần kinh người nghe cảm thấy thoải mái, dễ chịu nhưng đừng quên phải thật tập trung và nghiềm nghẫm nhiều lần kiệt tác Progressive Metal như “The Perfect Element”. Dù dài đến 73 phút, ban nhạc luôn duy trì phong độ cao nhất và cũng không phóng đại khi nói rằng mỗi bài hát là một kiệt tác nhỏ trong một tổng thể hoàn hảo. Để lựa chọn một biểu tượng, tôi chọn “Ashes”, chưa bao giờ tôi nghe ca sĩ Progressive nào hát hay đến không tưởng, những cú chạy guitar tạo cảm giác ấm áp kỳ lạ, cây keyboard luyến như sóng dạt và bao nhiêu lời khen nữa cũng không đủ….

“The Perfect Element” là gì? Đó là những câu chuyện Gildenlow và các bạn của anh đã trải qua hoặc đọc ở đâu đó về thời thơ ấu và tuổi vị thành niên. Những yếu tố nào tạo chúng ta thành những cá thể khác nhau, những gì làm chúng ta rung động… Tuy nhiên, theo lời Gildenlow, anh cố gắng không để cho lời nhạc của mình trở thành tiểu sử hay một câu chuyện có thật về một cá nhân nào. Hãy nghe “The Perfect Element-Part 1” biết đâu bạn sẽ thấy quá khứ của mình hiện lại trong những bản Progressive cực hay này.

Remedy Lane-InsideOut Music-2002

remedy.jpg

 

1. Of Two Beginnings
2. Ending Theme
3. Fandango
4. A Trace Of Blood
5. This Heart Of Mine (I Pledge)
6. Undertow
7. Rope Ends
8. Chain Sling
9. Dryad Of The Woods
10. Remedy Lane
11. Waking Every God
12. Second Love
13. Beyond The Pale

Sau khi thưởng thức 3 tuyệt phẩm của Pain Of Salvation, những ai thích Progressive Metal đều trông đợi một kiệt tác nữa. Đối với những ai khắc khe, dĩa mới phải có những nét đặc trưng riêng so với những dĩa trước. Dù là Pain Of Salvation nhưng “Perfect Element” phải khác với “Entropia”, “One Hour By Concrete Lake” cũng phải khác với “Perfect Element”, không thích một sự sao chép lại. Và “Remedy Lane” xứng đáng là một kiệt tác riêng biệt hoàn toàn với 3 dĩ a trước. Tôi không ngần ngại khẳng định đây là dĩa Progressive Metal hay nhất năm 2002, hơn một chút so với hai kiệt tác của Symphony X và Dream Theater.

Khi nghe Pain Of Salvation hay một nhóm Progressive Metal nào khác xuất chúng như họ, người nghe không thể cảm nhận tất cả tài năng của ban nhạc nếu chỉ nghe vài bài trong dĩa. Cách hay nhất là nghe từ dầu đến cuối và nghiềm ngẫm từng bài hát. “Remedy Lane” có vẻ nhẹ nhàng nhất trong 4 dĩa. Nhạc điệu rất êm dịu, đôi lúc rất chậm rãi, chú ý kỹ người nghe sẽ thấy nghệ thuật đặc trưng của Progressive, nhịp trống và guitar đánh theo hai điệu khác nhau. Ngoài ra, ảnh hưởng của Fates Warning, Queensryche khá rõ nét (qua giọng hát và tiếng guitar), ngoài ra tôi còn thấy cả ballad rock. Pain Of Salvation kết hợp rất nhuần nhuyễn những gì xuất sắc nhất của hai ban nhạc trên trong kiệt tác này. Trong số các thành viên của ban nhạc xuất chúng này, phải đặc biệt chú đến Daniel Gildenlow. Trong dĩa này, Daniel Gildenlow thể hiện tuyệt vời tài năng của mình, ngoài giọng hát không thể chê ở bất cứ điểm nào, anh là thành viên viết nhạc chính và anh cũng tự thiết kệ bìa dĩa để thể hiện ý tưởng của mình. Nghe Gildenlow hát, giọng không quá cao cũng không quá thấp, hấp dẫn kỳ lạ. Qua mỗi dĩa, giọng ca của Gildenlow luôn thay đổi cho phù hợp với ý tưởng muốn truyền tải. Trong dĩa này, lúc anh ta hát rất đau khổ (chú ý “Rope End”) lúc nghe dồn dập, thánh thót trong “Chain Sling”, khi thì oai oái như trong “Second Love”…

Tất cả dĩa của Pain Of Salvation cho đến lúc này đều là “Concept Album”. Về nội dung của “Remedy Lane” thì vô cùng khó hiểu. Theo ý kiến cá nhân, tôi cho rằng Daniel Gildenlow viết về xung đột trong hôn nhân. Qua câu chuện về hai đưá trẻ 10 và 12 tuổi tại Budapest, nội dung dĩa thể hiện xung khắc về tâm lý, hành động và không khí ngột ngạt khi cuộc sống hôn nhân bất ổn. Ý kiến người nghe sẽ khác nhau, đây cũng là một chi tiết lôi cuốn.

Sau bốn dĩa của Pain Of Salvation, có thể kết luận điều gì. Tất cả đều hay và có những nét riêng biệt. Pain Of Salvation rất khó nghe với những ai mới làm quen với Metal. Nếu bạn thích Death/Black và chưa bao giờ thích Progressive Metal, Pain Of Salvation sẽ thuyết phục bạn. Hãy thử xem?

Remedy Lane chính là không gian và thời gian của một sự cô đơn tuyệt diệu, vì tôi có thể đánh đổi một buổi hẹn hò để lắng mình trong âm thanh này. Mỗi một bài trong album concept này lại là một single vì kết cấu của từng bài hoàn toàn riêng biệt. Daniel Gildenlow lại một lần nữa cho ta thấy cái say mê của tình yêu lẫn niềm khổ đau trong tuyệt vọng vì mất mát qua lời nhạc và giọng hát của anh cùng những âm thanh progressive vô cùng sáng tạo. Anh kể lại chuyện hai người yêu nhau và đau đớn khi mất đứa con còn trong bụng mẹ và đoạn kết của một mối tình vẫn chưa tìm thấy…

Điểm son của Remedy Lane đúng là Daniel vì anh đã hát với tất cả say đắm của mình. Giọng hát truyền cảm của anh đã bắc được một nhịp cầu vào lòng người nghe đến nỗi tưởng như là không còn gì xung quanh ta nữa… Chất nhạc thật là đặc sắc và phong phú, từ Jazz, Blues Rock cho đến nhịp phách trống của Death đâu đó 1 ít, kể cả giọng dân gian bàng bạc qua từng ngón gãy của đàn ghita, giai điệu mênh mông của dương cầm và keyboard, khó có thể chọn ra một bài hay nhất!

Bạn yêu thích Sweden ư? Chắc chắn chưa phải là vì làn hơi lạnh trên mặt hồ Vänersee hay những khúc quanh lặng lờ của nó chảy dài khắp vùng Dasland, hoặc vì những dãy núi với rừng thông cao ngất, mà vì tiếng đàn réo rắt ngọt lịm của “Chain Sling” hay “Dryad Of The Woods” và “Second Love”, nhẹ nhàng và rất “bluesy” của “This Heart Of Mine”, gợi cảm, tràn đầy sức sống trong “Of Two Beginnings”, “Remedy Lane”, “Rope Ends”, rồi thực sự như lạnh tóat toàn thân qua “A trace Of Blood”…

Có khi nào bạn tự hỏi tại sao ngày vui nào cũng qua mau? Nếu lắng nghe “Undertow” và “Ending Theme” câu trả lời đã nằm trong những đoạn điệp khúc lên cao, thật cao, dồn dập cho người nóng bỏng thêm một lần nữa, rồi từ từ tàn dần trong nhịp điệu chỉ còn như bước lê trên cỏ ướt, nặng chịnh và buồn bã…

Thế đấy, Remedy Lane không thích hợp cho những tâm trạng đang vui và yêu đời, những bàn tay này sẽ không giữ nổi hình ảnh vừa kể trong vòng 1 phút. Nhưng đó cũng là một điểm son cho Pain Of Salvation, vì Daniel và ban nhạc chắc chắn chỉ muốn kể câu chuyện này cho người biết buồn mà thôi!


Like it? Share with your friends!

0

You may also like

More From: Ban nhạc

  • Rock Sài Gòn một thuở qua những hồi ức về Phượng Hoàng

    Những năm cuối thập niên 70, khi những người yêu nhạc trên khắp hành tinh còn mải mê chìm đắm trong những giai điệu bất cần, phiêu lãng và đầy tính hiện sinh của những C.B.C, The Beatles thì âm nhạc Việt Nam lại xôn xao trước sự xuất hiện của một nhóm nhạc Rock rất bụi bặm, phong trần, hát bằng tất cả trái tim với thứ âm nhạc ngùn ngụt được cháy từ trong huyết quản của mình.

  • Michael Amott – hảo thủ guitar

    Điều gì đã làm nên sức ảnh hưởng rộng khắp của CARNAGE, CARCASS và ARCH ENEMY, ngoài việc họ đều là các band metal sừng sỏ . Xin thưa, đó là nhờ vào sự có mặt của Michael Ammott. Nếu các bạn đang tự hỏi anh đã tham gia vào bao nhiêu band nhạc, anh đã cho ra đời bao nhiêu tác phẩm kinh điển thì qua bài viết nhỏ này, tôi hy vọng sẽ tổng hợp được 1 phần nào đó về sự nghiệp “chinh chiến” của anh cho đến ngày hôm nay .

  • Apocalyptica – Những Cây Cello Gào Thét

    Thông tin sơ lược về Apocalyptica:

    • Quốc tịch: Helsinki - Phần Lan
    • Thể loại: Symphonic/Speed Metal & chamber music
    • Hoạt động: 1996 – present
    • Hãng sản xuất: Zen Garden (với album Plays Mettalica by Four Cellos) & Mercury (các album còn lại)

  • Ektomorf

    EKTOMORF được thành lập vào năm 1994 bởi 2 anh em nhà Farkas - Zoltán (vocals, guitar) và Csaba (bass). Sau một thời gian chơi underground và sáng tác các ca khúc, đến năm 1996 ban nhạc bắt đầu ghi âm và phát hành album đầu tay "Hangok". Với thể loại nhac kết hợp hoài hòa sức mạnh của Thrash Metal, Hardcore, Punk và Gypsy Folklore (resulting from the Roma roots of the Farkas brothers), EKTOMORF nhanh chóng có được một số lượng lớn fan hâm mộ đón nhận và ủng hộ tại quê hương Hungarian của mình.

  • Therion

    Nghệ thuật có giá trị đòi hỏi người sáng tạo ra nó phảI sáng tác những gì mang bản sắc cá nhân riêng biệt, độc đáo và lôi cuốn. Therion là một ban nhạc đã sáng tạo ra thứ âm nhạc nghệ thuật như thế.

DON'T MISS