Linkin Park


160px-lp_logo.JPGLinkin Park (đôi khi được viết là LIИKIИ PARK như những logo nổi tiếng của họ) là một ban nhạc nu metal/rapcore ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Họ là một trong những band nổi tiếng và thành công nhất của thể loại nu metal, chủ yếu do album đầu tiên, Hybrid Theory năm 2000, đã bán được 20 triệu bản trên thế giới.

280px-linkin_park_rock.jpg

Thành viên

Hiện tại

  • Chester Bennington – Ca sĩ
  • Mike Shinoda – Ca sĩ, MC, Rhythm Guitar, keyboard, slamples, beats
  • Brad Delson – Ghita
  • Dave “Phoenix” Farrell – Ghita bass
  • Joseph Hahn – DJ, samples, beats
  • Rob Bourdon – Trống

Thành viên cũ

  • Scott Koziol – đã từng chơi bass trong album Hybrid Theory , xuất hiện trong video One Step Closer
  • Kyle Christener – chơi bass trong thời gian Phoenix vắng mặt khi ban nhạc thực hiện Hybrid Theory EP
  • Mark Wakefield – ca sĩ, rời ban nhạc năm 1998, vị trí đó hiện tại là của Chester Bennington. Hiện nay anh là quản lí của ban nhạc Taproot.

Lịch sử ban nhạc

1996 – 1999

200px-linkin_park-hybrid_theory_ep.jpg

 

Năm 1996, tay ghita Brad Delson và MC Mike Shinoda tốt nghiệp trường trung học Agoura, tại Los Angeles, ngoại ô Agoura Hills, California. Trong lễ tốt nghiệp, họ thành lập một ban nhạc với một người bạn, tay trống Rob Bourdon, với cái tên “SuperXero”. Trước đó Bourdon và Delson đã chơi chung trong một ban nhạc trong một năm là “Relative Degree”.Ba thành viên của ban nhạc chơi thể loại nhạc sơ khai của họ khi còn ở trong trường. Delson đã từng học tại Đại học California, Los Angeles. Shinoda đến từ Art Center College of Design, Pasadena, California. Khi còn học đại học, Delson gặp Dave Farrell. Họ là bạn chung phòng, cùng học tập và vui chơi với nhau. Trước đó, Farrell đã chơi trong một ban nhạc tên là Tasty Snax cùng với Mark Fiore – sau này là cố vấn điện ảnh của Linkin Park. Ở Art Center College of Design, Shonoda cũng đã gặp Joe Hahn. Farrell và Hahn sau đó cũng gia nhập vào SuperXero, và cái tên đó cũng được rút ngắn đi thành “Xero”. Rồi Mark Wakefield cũng tham gia vào ban nhạc, họ cùng nhau thu âm bản demo đầu tiên và gửi cho nhiều hãng thu âm khác nhau. Nhưng bản demo đó không được chú ý và ban nhạc không được biết đến. Một thời gian sau, Wakefield rời khỏi ban nhạc.

Sau khi Wakefield rời đi, Shinoda tổ chức thử giọng cho ca sĩ mới, cùng thời gian đó, Delson cũng gặp được người đại diện của Hãng thu âm Warner Brothers A&R Jeff Blue. Blue giới thiệu Bennington cho họ, một giọng ca trẻ từ Phoenix, Arizona và đang tìm việc trong một ban nhạc mới. Shinoda và Delson gửi cho Bennington một cuộn băng chứa phần nhạc của bài hát và anh ghi âm giọng của mình. Sau đó anh gọi điện cho Shinoda và hát trên điện thoại. Đó là sự khởi đầu cho những điều tốt đẹp đến với ban nhạc ngay khi một ca sĩ có năng lực cùng tham gia là Chester Bennington. Khi Chester gia nhập vào ban nhạc, họ bắt đầu tìm một cái tên mới. Cái tên cũ đã được dùng bởi một ban nhạc thập niên 1970, 1980 ở Australia, và họ dổi tên thành Hybrid Theory và đội hình của họ gần như đã được “đóng băng” lại. Farrell tạm thời rời khỏi ban nhạc vì ban nhạc cũ The Snax/Tasty Sanx, do vậy anh không thể chơi bass trong EP (đĩa dài). Thay vào đó, Delson và Kyle Christner đã chơi bass. Vào khoảng giữa năm 1999, hàng ngàn bản EP đã được tiêu thụ. Những bản khác cũng đã được gửi cho nhiều hãng ghi đĩa, bao gồm cả Warner Brothers Records. Farrell thay vào vị trí của Scott Koziol. Sau đó, ban nhạc thamm gia vào Warner Brothers năm 1999.

Và bằng cách nào đó, ban nhạc lại đổi tên một lần nữa vì liên quan tới vấn đề bản quyền với một ban nhạc Anh là Hybrid. Có khá nhiều gợi ý khác nhau cho tên ban nhạc, bao gồm Clear, Probing Lagers, Ten P.M. Stocker (lời nói đùa cho ban nhạc khi họ luôn thu âm và luyện tập khá muôn vào buổi tối) và Platinum Lotus Foundation. Cuối cùng Bennington gợi ý tên Lincoln Park vì anh đi từ Lincoln Park ở Santa Monica, California mỗi ngày để tới studio cùng ban nhạc khi họ thu âm album đầu tiên. Bennington nghĩ đây sẽ là một cái tên tốt cho ban nhạc vì Lincoln Park có ở khắp mọi vùng. Anh muốn ban nhạc được công nhận là một ban nhạc địa phương ở những nơi họ tới, không quan trọng nơi đó là đâu. Anh rất thích cái tên đó vì nó không có ý nghĩa, và âm nhạc có thể được coi là chính nó. Nhưng tên miền “lincolnpark.com” đã được sử dụng và ban nhạc không đủ khả năng mua lại nó, nên họ đổi “Lincoln” thành “Linkin” và như vậy có thể dùng tên miền “linkinpark.com”.

2000 – 2002: Tiếp cận với thành công

200px-linkin_park-hybrid_theory.jpg

 

Album Hybrid Theory

Ngày 24 tháng 10 năm 2000, album đầu tiên Hybrid Theory được phát hành tại Mĩ. Những bài hát của EP được ghi lại thành demo của Hybid Theory. Single đầu tiên, “One Step Closer” đã là bài hát rock tại MTV.

Ban nhạc biểu diễn trong đêm nhạc tầm cỡ quốc gia lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 12 năm 2000, là một phần của KROQ Acoustic Christmas|Almost Acoustic Christmas. Shinoda viết một bài hát mới có tên là “My December” cho dịp này. Bài hát không có trong Hybrid Theory. Sau đó, nó nằm trong album lễ giáng sinh phát hành bởi KROQ DJs Kevin và Bean.

Vào đầu năm 2001, Farrell quay trở lại ban nhạc và đĩa đơn thứ hai, “Crawling”, được phát hành và giành được giải Grammy cho “ban nhạc hard-rock hay nhất” năm 2002. Ban nhạc khởi đầu tua diễn có tính quốc gia đầu tiên, en:Ozzfest, với những nghệ sĩ khác như Black Sabbath, Marilyn Manson, Slipknot, và Zakk Wylde’s Black Label Society. giữa năm này, ban nhạc phát hành đĩa đơn thứ ba, “In The End”. Bài hát là hit lớn nhất của ban nhạc và là một trong most-spun của năm 2001. Video của ca khúc này đạo diễn bởi Nathan “Karma” Cox và Hahn, trong đó, họ chơi nhạc ở trên đầu một bức tượng đồ sộ trong mưa. Ngày 20 tháng 11DVD đầu tiên với tựa đề Frat Party at the Pankake Festival. DVD có những video của ban nhạc khi họ vui đùa và một phim tài liệu khi họ đi tua diễn quảng cáo cho Hybrid Theory. Vào tháng này, một người bạn của ban nhạc đề nghị thành lập một câu lạc bộ những người hâm mộ (fanclub). Họ nghĩ đó là một ý kiến hay, và Linkin Park Undergound (LPU) ra đời. Hàng năm, thành viên của fanclub nhận được một kiện hàng, gồm có 1 T-shirt, 1 CD, và một trong những đồ vật khác, như guitar pick, sticker và poster. CD đầu tiên là bản phát hành lại của Hybrid Theory EP với những hình ảnh mới. năm 2001, ban nhạc phát hành

Đầu năm 2002, ban nhạc bắt đầu lên kế hoạch cho tua diễn Projekt Revolution. Giai đoạn đầu của tour diễn có [Adema]], Cypress Hill, the Apex Theory, và DJ Z-Trip. Trong thời gian này, Shinoda và Hahn cộng tác với X-Ecutioners trong bài hát It’s Goin’ Down. Không lâu sau khi tour diễn kết thúc, ban nhạc trở lại studio.

 

200px-linkin_park-reanimation.jpg

 

Album Reanimation

Khi được gửi cho những bản remix (phối khí lại những bài hát của Linkin Park, Shinoda quyết định phát hành một album remix. Ban đầu, anh ta chỉ muốn remix 2 bài hát và phát hành nó dưới dạng đĩa EP. Nhưng, nhờ vào sự khuyến khích của những người bạn cùng ban nhạc (đặc biệt là Hahn và Delson), Shinoda thực hiện một kế hoạch dài hơi hơn. Và nó có tên là Reanimation, album remix những bài hát trong Hybrid Theory và một số bài hát khác, như My December và High voltage. Mỗi ca khúc được remix bởi những nghệ sĩ khác nhau, và có tin cho rằng Shinoda đã nhận được 50 bản remix, anh ta đã nghe từng bản một và tự tay chọn ra những bản tốt nhầt. Có hai bản remix không nằm trong Reanimation, là Points of Autority của the Crystal Method (có trong CD LPU thứ hai)và bản remix By Myself của Marilyn Manson. Có một bản remix My December được xác nhận là của Team Sleep cũng bị loại ra vì nó làm cho bài hát thêm đen tối; Shinoda đã chọn bản như trong album vì nó làm cho bài hát dường như vui tươi và hạnh phúc hơn. Một vài nghệ sĩ cùng cộng tác trong album là Chali 2na của Jurassic 5, Stephen Richards của Taproot,Kelli Ali của Sneaker Pimps, Aaron Lewis của Staind, the Humble Brothers, Jonathan Davis của Korn, Aceyalone, Pharaohe Monch, The X-Ecutioners, Black Thought, Jay Gordon của Orgy.

Album phát hành vào ngày 30 tháng 7 năm 2002, đĩa đơn đầu tiên và duy nhất là Pts.of.Athrty (Points of Authority) remix bởi Jay Gordon của Orgy. Vào tháng 11, ấn bản thứ hai của LPU được tung ra.

2003 – 2004: Meteora, Live In Texas, Collision Course, Minutes To Midnight

 

200px-linkin_park-meteora.jpg

 

Album Meteora

Ban nhạc quay lại studio vào giữa năm 2002 để thu âm album mới. Tên album được giữ bí mật cho tới tháng 12, lúc đó nó được tiết lộ là Meteora. Single đầu tiên: Somewhere I Belong phát hành vào tháng 2 năm 200325 tháng 3 năm 2003, Meteora được phát hành và giữ vị trí đầu bảng tại Billboard sau khi bán được 810.000 bản trong tuần đầu tiên. Nó bán được 11 triệu bản trên toàn thế giới, trong đó có hơn 5 triệu bản tại Mĩ. và rất được hoan nghênh. Vào ngày

Sau khi phát hành album , ban nhạc bắt đầu tua diễn Projekt Revolution lần thứ hai của họ với Blindside, Mudvayne và Xzibit. Single Faint phát hành vào gần cuối tua diễn. Tiếp theo, ban nhạc tham gia với Metallica trong tua Summer Sanitarium 2003 của họ, cùng với Limp Bizkit, Deftones và Mudvayne. Một thời gian ngắn sau khi tua diễn này kết thúc, ban nhạc phát hành đĩa đơn Numb. Họ quay video của đĩa đơn này tại Praha, cộng hòa Séc. Đống thời, họ cũng quay video cho From the Inside và video này còn được làm trước cả video của Numb. Bennington bị ốm trườc khi video của Numb hoàn thành nên phần cuối của video này quay tại một nhà thờ ở Los Angeles.

 

 

200px-linkin_park-live_in_texas.jpg

 

CD/DVD Live in Texas

Ngày 18 tháng 11 năm 2003, ban nhạc phát hành một CD/DVD mới là Live in Texas. Cuốn phim ghi hình ở tua diễn Sanitarium tại Dallas và Houston, Texas. DVD kết hợp cả hai live-show cùng lúc, vì vậy ban nhạc đã mặc những trang phục giống nhau ở những ngày diễn kế nhau. DVD có 17 bài hát và CD có 12 bài được chọn lọc trong số đó. Cũng trong tháng này, phiên bản LPU thứ 3 được tung ra. CD này có 5 bài hát được cắt từ DVD Live in Texas. Nó quả là không được hay lắm với những thành viên fanclub, nhưng người muốn CD có những bài hát đặc biệt (như 2 lần trước) thay vì những bài hát live. Vào cuối năm, ban nhạc biểu diễn tại đêm nhạc KROQ Almost Acoustic Christmas thứ 3 của mình.

Đầu năm 2004, ban nhạc khởi đầu “Meteora World Tour” của họ với P.O.D, Hoobastank và Story of the Year. Trong thời gian của tua diễn, video From the Inside được phát hành trên toàn cầu. Tiếp theo chuyến lưu diễn này, ban nhạc bắt đầu thực hiện video được kì vọng nhầt của họ từ trước tới nay, Breaking the Habit, với phong cách anime của Nhật Bản, đạo diễn bởi Kazuto Nakazawa và Hahn. Video là chuyến du hành của linh hồn Bennington xuyên qua một tòa nhà cũ, gặp những người khác nhau chiến đấu với những thói quen khác nhau mà họ cố gắng từ bỏ. Một số trong những thói quen đó là ma túy, sự lạm dụng tình dục. Trước khi phát hành đĩa đơn Breaking the Habit, single Lying from You cũng được phát trên sóng phát thanh.

Sau đó, Linkin Park bắt đầu tua diễn Projekt Revolution thứ 3, là tua diễn được kì vọng. Nó có hai sân khấu mà họ gọi là Revolution Village. Sân khấu chính gồm có Linkin Park, Korn, Snoop Dogg, the Used và Less Than Jake trong khi sân khấu thứ hai gồm Ghostface, Funeral for a Friend, M.O.P., Downset, No Warning, instruction and Autopilot Off. DJ Z-Trip cũng cũng cùng đi tua, với vai trò là between-set của buổi biểu diễn. Revolution Village có những trò giải trí như video game kiosk, miniature skate park, batting cage, remixing stage và còn nhiều trò khác. Đây là tua diễn “cháy vé” nhất của năm.

 

200px-linkin_park-collision_course.jpg

 

Album Collision Course

Cuối năm 2004, Linkin Park cộng tác với Jay-Z theo đề gnhị của MTV. Kết quả là bản EP Collision Course30 tháng 11. Đó là sự pha trộn (mashups) 7 bài hát của Linkin Park và 6 của Jay-Z. Đĩa đơn đầu tiên, Numb/Encore nằm trong top-20 của Billboard trong 6 tháng và đoạt được một giải Grammy. Album cũng đứng vị trí số 1. phát hành vào ngày

Ấn bản LPU thứ tư phát hành vào tháng 11. CD này có 2 bài hát mới, một là 2 phút nhạc gọi là Sold My Soul to Yo Mama bởi Hahn, và bài kia là Standing in the Middle, một sự hợp tác với Motion Man. Bài hát này được thu âm từ năm 2001, như một bài hát nháp cho Reanimation.

2005 – hiện tại: Những sự kiện mới nhất

Năm 2005 là một năm khá yên lặng đối với Linkin Park. Ban nhạc thành lập Music for Relief- một tổ chức giúp đỡ những nạn nhân động đất 2004 Ấn Độ Dương. Nó phát triển thành một chương trình giúp đỡ những nạn nhân thảm họa thiên nhiên khác, như bão Katrina, bão Rita. Ban nhạc có hai show diễn vào năm này, một tại California cho Music for Relief, một tại Philadelphia trong Live 8. Chester Bennington còn biểu diễn tại ReAct Now: Music & Relief – một buổi biểu diễn dài 4 giờ rưỡi trong ngày 10 tháng 9 năm 2005 nhằm gây quỹ cho nạn nhân bão Katrina – MTV, VH1 và CMT đã truyền hình buổi biểu diễn này. Trong buổi biểu diễn đò, Chester đã trình bày Let Down, một ca khúc buồn và chậm do chính anh viết.

Vào tháng 5, ban nhạc yêu cầu phá bỏ hợp đồng với Warner Brothers bởi vì “a lack of confidence” (một sự thiếu tin tưởng). Bna nhạc đã tìm được một hãng thu âm mới.

Vào tháng 7, Shinoda giới thiệu kề hoạch ngoài lề (side-project) của mình, Fort Minor. Anh ta giải thích rằng đó là môt cách để anh quay lại với căn nguyên hip-hop của mình. Shinoda muốn ghi âm những bài hát cùng những người bạn trong nghề tốt và thân nhất của mình, gồm có Styles of Beyond , Black Thought của The Roots và Common (một trong số những người giúp thực hiện album Reanimation). Album đầu tiên của Fort Minor, The Rising Tied, phát hành vào ngày 22 tháng 11 năm 2005.

Bennington cũng có một side-project, album solo của mình với Amir Derakh và Ryan Shuck của Orgy. Những điều được biết về dự án này là cái tên của nó, Snow White Tan, một bài hát của nó là Morning After. Những kế hoạch của Shinoda và Bennington làm xuất hiện tin đồn rằng vì vậy mà ban nhạc bị chia rẽ. NHưng họ đã phủ nhận tin đồn đó.

Phiên bản thứ 5 của LPU cũgn phát hành vào ngày 21 tháng 11 năm 2005. Trong CD có những bài hát mà ban nhạc biểu diễn tại Live 8 và một vài bài hát khác với Jay-Z.

Cũng vào tháng 11, Farrell tiết lộ rằng Linkin Park đã ghi âm một bài hát mới cho Machine Shop Mixtape series. Vào ngày 8 tháng 12 nâm 2006, Linkin Park được giới thiệu cho một nhà sản xuất album-studio thứ ba của họ, Rick Rubin, người đã làm việc với The Beastie Boys, Red Hot Chili Peppers, System Of A Down và một số người khác.

Vào lễ trao giải Grammy 2006, Linkin Park đã biểu diễn cùng với Jay-Z và Paul McCartney bài hát Yesterday. Cũng trong buổi lễ này, Rolling Stones đã phỏng vấn Chester Bennington. Anh ta tuyên bố rằng album mới của Linkin Park sẽ khác với những album trước đó.

Ngày 9 tháng 6 năm 2006, một đoạn quảng cáo (trailer) của “LPTV” được tung lên YouTuBe nó có 10 phần và đã thu được sự chú ý nhờ vào những tin nhắn của thành viên LPU. Hiện nay những video này có thể xem tại trang web chính thức của ban nhạc.Mùa hè này, Linkin Park diễn tại Summer Sonic tour 2006 tại Nhật Bản; tại đây họ đã biểu diễn một ca khúc mới là QWERTY. Đầu năm 2007, Shinoda sẽ có môt buổi phỏng vấn với KROQ về album sắp phát hành của nhóm. Ngày 10, 11 và 12 tháng 9, Linkin Park cũng như Fort Minor sẽ tới Louisiana để phân phát hàng tiếp tế cho 17 trường học khác nhau nạn nhân của bão Katrina.

Ngày 2-4-2007 vừa qua, Linkin Park đã cho ra single mới nhất của mình, một bài hát nằm trong album “Minutes To Midnight” sắp ra mắt vào ngày 15-5-2007 tới, bài hát mang tên “What I’ve Done” cùng với một video clip mang chủ đề phản chiến, đánh dấu cho nhiều sự trưởng thành trong phong cách âm nhạc của Linkin Park.

Những đĩa nhạc đã phát hành

Album và EP

năm Album US UK Hãng ghi âm Số lượng bàn tại Mĩ
1999 Hybrid Theory EP phát hành độc lập
2000 Hybrid Theory 2 2 Warner Brothers Records đĩa Kim cương
2002 Reanimation 2 3 Warner Brothers Records/Machine Shop Recordings 2 đĩa Bạch kim
2003 Meteora 1 1 Warner Brothers Records/Machine Shop Recordings 6 đĩa Bạch Kim
2003 Live in Texas 23 43 Warner Brothers Records/Machine Shop Recordings đĩa Vàng
2004 Collision Course (với Jay-Z) 1 15 Warner Brothers Records/Machine Shop Recordings/Roc-a-Fella Records 2 đĩa Bạch kim

  • Danh sách các bài hát có trong album:

– Hybrid Theory: 01. Papercut 02. One Step Closer 03. With You 04. Points Of Authority 05. Crawling 06. Runaway 07. By Myself 08. In The End 09. A Place For My Head 10. Forgotten 11. Cure Fot The Itch 12. Pushing Me Away

– Reanimation: 01. Opening 02. Pts.Of.Athrty 03. Enth E Nd 04. [Chali] 05. Frgt/10 06. P5hng Me A*wy 07. Plc.4 Mie HÆd 08. X-Ecutioner Style 09. H! Vltg3 10. [Riff Raff] 11. Wth>You 12. Ntr/Mission 13. Ppr:Kut 14. Rnw@y 15. My<Dsmbr 16. [Stef] 17. By_Myslf 18. Kyur4 Th Ich 19. 1Stp Klosr 20. Krwlng

– Meteora: 01. Foreword 02. Don’t Stay 03. Somwhere I Belong 04. Lying From You 05. Hit The Floor 06. Easier To Run 07. Faint 08. Figure.09 09. Breaking The Habit 10. From The Inside 11. Nobody’s Listening 12. Session 13. Numb

– Collision Course: 01. Lying From You/Dirt Off Your Sholder 02. Papercut/Big Pimpin 03. Faint/Jigga What 04. Numb/Encore 05. In The End/Izzo 06. Points Of Authority/99 Problems/OSC

– Fort Minor – The Rising Tied(kế hoạch riêng của Mike Shinoda): 01. Introduction 02. Remember The Name 03. Right Now 04. Petrified 05. Feel Like Home 06. Where’d You Go 07. In Stereo 08. Back Home 09. Cigarettes 10. Belive Me 11. Get Me Gone 12. High Road 13. Kenji 14. Red To Black 15. Battle, The 16. Slip Out The Back

CD Linkin Park Underground

  • Hybrid Theory EP (Re-issue) (2001, MixMedia)
  • LP Underground 2.0 EP (2002, Machine Shop Recordings)
  • LP Underground 3.0 EP (2003, Machine Shop Recordings)
  • LP Underground 4.0 EP (2004, Machine Shop Recordings)
  • LP Underground 5.0 EP (2005, Machine Shop Recordings)

Single

Năm Bài hát US Hot 100 US Modern Rock US Mainstream Rock UK singles Germany Singles Chart Album
2001 “One Step Closer” 75 5 4 24 32 Hybrid Theory
2001 “Crawling” 79 5 3 16 14 Hybrid Theory
2001 “In The End” 2 1 (5 tuần) 3 6 13 Hybrid Theory
2002 “Papercut” 32 14 49 Hybrid Theory
2002 “Pts.Of.Athrty/H! Vltg3” 29 9 31 Reanimation
2002 “Runaway” 40 37 31 Reanimation
2003 “Somewhere I Belong” 32 1 (5 tuần) 1 10 12 Meteora
2003 “Faint” 48 1 (6 tuần) 2 15 40 Meteora
2003 “Numb” 11 1 (12 tuần) 1 14 19 Meteora
2004 “Lying From You” 58 1 (3 tuần) 2 Meteora
2004 “From The Inside” 35 Meteora
2004 “Breaking The Habit” 20 1 (4 tuần) 1 39 25 Meteora
2004 “Numb/Encore” (với Jay-Z) 20 14 4 Collision Course

Video

Những video của Linkin Park khá đa dạng, thành viên Joe Hahn đạo diễn một số chúng. Phần lớn những video của Linkin Park đều có hiệu ứng diện ảnh khá cao, tận dụng kĩ thuật làm hoạt hình trên máy vi tính…. và những hiệu ứng đặc biệt khác.Một số video còn bao hàm diễn xuất của những diễn viên và phần minh họa của ban nhạc. Video Breaking the Habit đã nhận được giải Viewer’s Choice Award năm 2004 MTV Video Music Awards. Nhiều video của album remix Reanimation rất hiếm gặp, chúng chưa bao giờ được chính thức trên TV, chỉ có trên Internet và là dữ liệu chia sẻ trong cộng đồng fan.

Hybrid Theory

  1. “One Step Closer” (2000)
  2. “Crawling” (2001)
  3. “Papercut” (2001) (International)
  4. “In The End” (2001)
  5. “Points Of Authority” (2001) (International)

The X-Ecutioners’ Built From Scratch

  1. “It’s Goin’ Down” (2002)

Reanimation

  1. “Opening” (2002, MTV Flashback)
  2. “Points of authority” (2002, MTV Flashback)
  3. “Enth E ND” (2002, MTV Flashback)
  4. “[Chali]” (2002, MTV Flashback)
  5. “FRGT/10” (2002, MTV Flashback)
  6. “Pushing me away” (2002, MTV Flashback)
  7. “PLC.4 Mie Hæd” (2002, MTV Flashback)
  8. “X-Ecutioner Style” (2002, MTV Flashback)
  9. “H! Vltg3” (2002, MTV Flashback)
  10. “[Riff Raff]” (2002, MTV Flashback)
  11. “WTH>You” (2002, MTV Flashback)
  12. “NTRMssion” (2002, MTV Flashback)
  13. “Papercut” (2002, MTV Flashback)
  14. “Runaway” (2002, MTV Flashback)
  15. “My<DSMBR” (2002, MTV )
  16. “[Stef]” (2002, MTV Flashback)
  17. “By Myself” (2002, MTV Flashback)
  18. “Kyur4 TH Ich” (2002, MTV Flashback)
  19. “One Step Closer” (2002, MTV Flashback)
  20. “Crawling” (2002, MTV Flashback)
  21. “Points of authority” (2002, played on MTV normal video play)

Meteora

  1. “Somewhere I Belong” (2003)
  2. “Faint” (2003)
  3. “Numb” (2003)
  4. “From The Inside” (2003) (International)
  5. “Breaking The Habit” (2004)
  6. “Faint” Directors Cut (2003)
  7. “Breaking The Habit” Kimo Proudfoot Edition (2004)

Collision Course

  1. “Numb/Encore” với Jay-Z (2004)

Minutes To Midnight

01. Wake 02. Given Up 03. Leave All Out The Rest 04. Bleed It Out 05. Shadow Of The Day 06. What I’ve Done 07. Hands Held High 08. No More Sorrow 09. Valentine’s Day 10. In Between 11. In Pieces 12. The Little Things Give You Away

Những video khác

  1. Home Sweet Home (với Chester) – Motley Crue
  2. The Festive Song (vớiChester) – Good Charlotte
  3. Endure (với Chester) – Nonpoint
  4. The Way You Like It (với Chester và Joe) – Adema
  5. Same Direction (với Chester) – Hoobastank
  6. It’s Going Down (với Mike Shinoda, Joe Hahn, Rob Bourdon) – The X-Ecutioners

Like it? Share with your friends!

0

You may also like

More From: Ban nhạc

  • Rock Sài Gòn một thuở qua những hồi ức về Phượng Hoàng

    Những năm cuối thập niên 70, khi những người yêu nhạc trên khắp hành tinh còn mải mê chìm đắm trong những giai điệu bất cần, phiêu lãng và đầy tính hiện sinh của những C.B.C, The Beatles thì âm nhạc Việt Nam lại xôn xao trước sự xuất hiện của một nhóm nhạc Rock rất bụi bặm, phong trần, hát bằng tất cả trái tim với thứ âm nhạc ngùn ngụt được cháy từ trong huyết quản của mình.

  • Michael Amott – hảo thủ guitar

    Điều gì đã làm nên sức ảnh hưởng rộng khắp của CARNAGE, CARCASS và ARCH ENEMY, ngoài việc họ đều là các band metal sừng sỏ . Xin thưa, đó là nhờ vào sự có mặt của Michael Ammott. Nếu các bạn đang tự hỏi anh đã tham gia vào bao nhiêu band nhạc, anh đã cho ra đời bao nhiêu tác phẩm kinh điển thì qua bài viết nhỏ này, tôi hy vọng sẽ tổng hợp được 1 phần nào đó về sự nghiệp “chinh chiến” của anh cho đến ngày hôm nay .

  • Apocalyptica – Những Cây Cello Gào Thét

    Thông tin sơ lược về Apocalyptica:

    • Quốc tịch: Helsinki - Phần Lan
    • Thể loại: Symphonic/Speed Metal & chamber music
    • Hoạt động: 1996 – present
    • Hãng sản xuất: Zen Garden (với album Plays Mettalica by Four Cellos) & Mercury (các album còn lại)

  • Ektomorf

    EKTOMORF được thành lập vào năm 1994 bởi 2 anh em nhà Farkas - Zoltán (vocals, guitar) và Csaba (bass). Sau một thời gian chơi underground và sáng tác các ca khúc, đến năm 1996 ban nhạc bắt đầu ghi âm và phát hành album đầu tay "Hangok". Với thể loại nhac kết hợp hoài hòa sức mạnh của Thrash Metal, Hardcore, Punk và Gypsy Folklore (resulting from the Roma roots of the Farkas brothers), EKTOMORF nhanh chóng có được một số lượng lớn fan hâm mộ đón nhận và ủng hộ tại quê hương Hungarian của mình.

  • Therion

    Nghệ thuật có giá trị đòi hỏi người sáng tạo ra nó phảI sáng tác những gì mang bản sắc cá nhân riêng biệt, độc đáo và lôi cuốn. Therion là một ban nhạc đã sáng tạo ra thứ âm nhạc nghệ thuật như thế.

DON'T MISS