Nhóm nhạc Anh thành lập năm 1966.
Lúc mới thành lập gồm:
Syd Barrett: ca sĩ, guitar
Roger Wright: keyboard
Nick Mason: trống
Sự nghiệp:
Barrett và Waters từng học chung ở trường trung học Cambridge cùng với một thành viên tương lai khác là Dave Gilmour. Barrett chuyển về đại học nghệ thuật ở London và chơi trong các ban Geoff Mott And The Mottos và The Hollering Blues, trước khi lập ban song ca với Gillmour. Trong lúc đó, Waters đang học kiến trúc ở London và đã thành lập ban Sigma 6 với Mason và Wright.
Nhóm Sigma 6 này tuần tự phát triển thành các nhóm với tên gọi T.Set, Megadeath và Screaming Abdabs, sau cùng kết hợp với Barrett và tay guitar nhạc jazz là Bob Close. Tên nhóm được đặt lại là The Pink Floyd Sound, một cái tên mà người ta đồn rằng được lấy cảm hứng từ các nghệ sĩ blues của miền Tahoma là Pink Anderson và Floyd Council. Khi họ chuyển sang nhạc psychedelic, thì Close bị loại ra. Năm 1966, nhóm chơi nhạc ở các quầy rượu tầng hầm, nhưng nơi nổi danh hơn hết là The Roundhouse. Cuối năm đó họ trở thành ban nhạc nổi tiếng chơi thường xuyên ở UFO, một câu lạc bộ số một của dân hippie ở London. Nhờ các ông bầu mới là Peter Jenner và Andrew King, họ giành được hợp đồng với hãng EMI, thu đĩa single đầu tiên vào tháng 01/1967. Bài Arnold Layne, do Barrett sáng tác, là một câu chuyện vui về một tay thích mặc quần áo phụ nữ và chuyên đi ăn cắp đồ lót. Âm thanh và chủ đề mới lạ của bài này đã đảm bảo vị trí top 20 trong bảng xếp hạng Anh, tạo cho Floyd danh tiếng là nhóm nhạc thành công nhất nổi lên từ các quán rượu ở Anh. Trong tháng 5/1967, bài hát đầy tham vọng Games For May được biểu diễn tại nhà hát Queen Elizabet ở London, bài này được phát hành thành đĩa single và lên đến hạng 6 ở Anh vào tháng 7. Vào tháng 8 cùng năm, đĩa LP đầu tiên Piper at the Gates chứng tỏ vai trò ngự trị của Barrett trong nhóm. Các ca khúc đầy những hình ảnh ngây thơ hồn nhiên, mang âm hưởng khá tinh tế của Lewis Carroll. Phần lead guitar của Barrett đã gây được ấn tượng và đã bổ sung một cách khéo léo cho phong cách chơi keyboard khác thường của Wright. Trước khi đi lưu diễn lần đầu tiên ở Mỹ, thái độ của Barrett ngày càng trở nên thất thường, có thể là do tác dụng phụ của sự lạm dụng các chất kích thích. Trong những tháng kế tiếp, tình trạng càng tồi tệ, có những buổi diễn anh chẳng chơi chút nào, chỉ đứng bất động trên sàn diễn. Vào tháng 12/1968, Gilmour được đưa vào thay thế, cuối cùng Barrett đã ra đi vào tháng 4 cùng năm. Không có lời ca của Barrett , nhóm có ít cơ hội để cho ra các đĩa single. Thay vào đó, họ tập trung vào công việc biểu diễn, xuất hiện thường kỳ tại Middle Earth, và được đưa tên lên hàng đầu trong các buổi hòa nhạc vào cửa tự do ở London’s Hyde Park vào tháng Bảy. Album thứ hai, A Sauceful Of Secrets, đã chứng tỏ tài năng để sống còn của họ. nó kết hợp tài sử dụng nhạc cụ của Waters, với đàn điện tử và hợp xướng, đạt hiệu quả cao, nhất là trong bài Set The Con trols For the heart Of the Sun.
Các buổi biễu diễn kế tiếp biểu lộ tính cách nhà nghề và trí tưởng tượng ngày càng phong phú trong việc sử dụng ánh sáng và âm thanh. Kế đó họ có vẻ quan tâm hơn đến nhạc film và việc này đã dẫn đến những album hay như More, The Committee, Zabriskie Poit, The body, Obscured By Clouds. Vào tháng 6/1969, phát hành album đôi Ummagumma, mà cả hai mặt đĩa đều chơi nhạc sống, thâu trực tiếp tại Mothers Club, Birmingham, và Manchester College Of Commerce. Tác phẩm này có phần buông thả và chất lượng hơi lung tung. Sau một quãng thời gian tương đối yên tĩnh, năm 1970 họ phát hành đĩa Atom heart mother, đã đứng đầu bảng xếp hạng đĩa LP ở Anh. Mặc dù thành công về thương mại, nhưng đó lại là tác phẩm ít gây ấn tượng. Tiếp nối là các buổi diễn thành công, trong đó có buổi diễn tự do ở Hyde Park.
Ðầu năm 1971, Floyd xuất hiện trong buổi dạ hội tại vườn Thượng Uyển giữa pháo hoa và mưa rơi. ở đây họ ra mắt lần đầu bài Return to the Son of nothing, một ứng tác nhạc rock với phần giai điệu phát triển. Chấm dứt dạ hội là bài Echoes, bài hát then chốt của đĩa LP Meddle của họ năm 1971. Tiếp đó đĩa LP The Dark Side Of the Moon là cao trào của các ý tưởng tích lũy trong nhiều năm, tập trung vào chủ đề cái chết và sự suy sụp tình cảm do sự hãi, sự cô đơn và kiệt quệ tinh thần. Tác phẩm cho thấy tính bi quan yếm thế rõ trong lối viết nhạc của Waters. Ðây là một đĩa chưa từng có vào thời kỳ đó, trở thành đĩa bán chạy nhất của họ, đứng trong bảng xếp hạng của Anh trong hai năm, và ở Mỹ trên một thập niên, và là đĩa LP “dài hơi” nhất trong lịch sử ghi âm. Sau khi phát hành album, nhóm chơi cho Earls Court ở London, rồi nghỉ xả hơi sáu tháng. Tái xuất hiện ngắn ngủi trong buổi diễn từ thiện của Robert Wyatt. Năm 1974, phần lớn thời gian các thành viên bận bịu với nhiều dự án khác nhau, nhưng họ đã quay về Mỹ để đi lưu diễn lần nữa vào năm 1975, trước khi diễn một buổi cực kỳ dở tại Knebworth ở Anh.
Cuối cùng album Wish you were here xuất hiện vào tháng 9/1975 sau hai năm rưỡi vắng bóng. Tác phẩm có phần gây thất vọng cho người nghe và phản ứng của báo chí tỏ ra không thuận lợi, nhưng về mặt kinh doanh thì lại là một thành công. Trong năm 1976 nhóm lưu diễn Châu Âu và Mỹ và hoàn tất album Animals, phát hành tháng giêng năm 1977. Các thành viên vẫn theo đuổi các dự án solo của mình giữa các lời đồn rằng nhóm sẽ giải tán. Album The Wall ra mắt năm 1979, lại là một thành công về doanh số, có bài đứng đầu bảng xếp hạng mùa giáng sinh là Another Brick In the Wall. Ðĩa The Final Cut, đề tựa như một lời tiên tri, nhấn mạnh tầm ảnh hưởng quan trọng của Waters trong nhóm. Sau đó là bắt đầu những rạn nứt. Năm 1987, các tranh chấp luật pháp về tên nhóm đã xảy ra. Wright, Gilmour và Mason đi lưu diễn bằng “đồ nghề” của Floyd, trong đó có chú heo bằng bong bóng. Waters vẫn đi diễn, sử dụng các đoạn film lưu trữ của Floyd để minh họa. Waters phát hành đĩa solo thứ hai có tựa đề thích hợp là Radio KAOS trước khi đạt thành công rực rỡ trong buổi trình diễn sống mang chủ đề The Wall vào năm 1990, trước một cử tọa lên đến 250.000 người. Chương trình này gồm các nghệ sĩ bạn hữu như Cyndi Lauper, Van morrison, Sinead O’Cornor, nhóm The Band và Bryan Adams. Tiền thu được từ việc bán chương trình cho truyền hình quốc tế được trao tặng cho Quỹ Cứu tế thiên tai ở Anh. Album sau đó The Wall Live In Berlin được xếp hạngở cả Anh và Mỹ.
Vẫn còn những rắc rối về việc kiện tụng, nhưng Floyd đã ghi âm các đĩa Lapse Of Reason và The Delicate Sound Of Thunder, những dự án này chỉ được thực hiện hời hợt, cho dù có thành công, nhưng cũng sẽ làm hỏng danh tiếng đáng trân trọng của Floyd.
Album:
1967 The Piper at the Gates of Dawn EMI
1968 A Saucerful of Secrets EMI
1969 More EMI
1969 Ummagumma EMI
1970 Atom Heart Mother EMI
1971 Meddle EMI
1972 Obscured by Clouds EMI
1973 Dark Side of the Moon EMI
1975 Wish You Were Here EMI
1977 Animals EMI
1979 The Wall EMI
1983 The Final Cut Columbia
1987 A Momentary Lapse of Reason Columbia
1988 Delicate Sound of Thunder [live] Columbia
1994 The Division Bell Columbia
1995 Pulse [live] Columbia
2001 Tribute Angular: Signs of Life Musea
2003 The Dark Side of the Moon [SACD] Capitol