Được biết qua các hit “Two Minutes to Midnight”, “Fear of the Dark” và “The Trooper” Iron Maiden đã và sẽ mãi mãi là một tượng đài lớn của làng Heavy Metal. Đây là cái tên được tay bass cựu trào Steve Harris đặt cho ban nhạc của mình . Iron Maiden được ra đời tại vùng Eastend, London – cái nôi của nhạc new wave và punk rock. Sự khắt khe trong việc chọn lựa nhân sự đã khiến mãi tới năm 1979 IRON mới ổn định đội hình . Họ gồm: Steven Harris (bass) , Dave Murray (Lead), Doug Sampson và Paul Di’Anno .
Đĩa đơn đầu tiên là: Soundhouse Tapes đã bán khá chạy qua đường bưu điện. Dù lúc này phải chịu sức ép rất nặng nề của các nhà sản xuất vì phong cách chơi nhạc không hợp thời đại lúc bấy giờ , Steven Harris đã từ chối rất nhiều hợp đồng để tự do dẫn dắt nhóm theo phong cách anh yêu thích. Nhóm kí hợp đồng với hãng EMI năm 1979 tháng 12 , và sau đó cho ra đời album xuất sắc như : Iron Maiden (1980) đã đưa nhóm lên đứng thứ 4 tại bảng xếp hạng của Anh. Khi này một tay lead mới đã gia nhập vào nhóm , đó là Adrian Smith. Chính Smith và Murray đã làm nên cặp bè đôi ghita xuất sắc bậc nhất trong lịch sử nhạc Rock. Những album kế tiếp như : Killers(1981), Number of the beast(1982) với sự gia nhập của ca sĩ Bruce Dickinson mà sau này rất thành công với giọng hát gầm gừ và ma quái với kiểu hát nhả ra từng chữ rất phù hợp với chất nhạc ma quái của Iron .Với những album như : Power Slave(1984), Piece of Mind(1983), Somewhere in Time(1986) và đặc biệt là tuyệt phẩm Seventh Son of a Seventh Son, Iron Maiden đã tự ghi tên mình vào hàng ngũ những ban nhạc vĩ đại trong lịch sử âm nhạc thế giới. Trong thời gian này Iron Maiden lại có thay đổi về nhân sự khi Smith ra đi , nhưng người thay thế là Jennick Gere dường như còn làm tốt hơn thế với sự ra đời của 2 album bất hủ : No Prayer for the Dying và đặc biệt là Fear of the Dark đã khiến số lượng fan hâm mộ tăng theo cấp số mũ trên khắp thế giới. Trong năm nay 2002 họ đã có kế hoạch cho tái xuất các album cũ của nhóm. Hy vọng họ sẽ thành công.
Các album của Iron Maiden:
1979-Soundhouse Tapes
1980-Iron Maidén981-Killers
1982-The Number of the Beast
1983-Piece of Mind
1984-Powerslave
1985-Live After Death (The World Slavery Tour)
1986-Somewhere in Time
1988-Seventh Son of a Seventh Son
1990-Trooper (single)
1990-Stranger in a Strange Land (single)
1990-Running Free Run to the Hills
1990-No Prayer for the Dying (single)
1992-Fear of the Dark
1993-A Real Live One
1993-A Real Dead One
1994-Live at Donnington ’92
1995-The X Factor
1998-Virtual XI
2000-Brave New World
Với phong cách cực kì ấn tượng , rất rõ nét trong làng heavy metal , Iron Maiden đã tạo nên một trường phái nhạc rất riêng của mình. Không phải là lối chơi với những nốt đơn thông minh ,lắt léo xuyên suốt các bài hát của Savatage; Không phải là tiếng đàn tru tréo, gào thét những giai điệu não lòng của Slash; không phải là tiêng trống dữ dội của Lars Ulrich ,những cú riff sắc nét và đôi tay diêu luyện của Kirk. Âm nhạc của Iron là sự kết hợp tinh tế nhuần nhuyễn đến tuyệt vời của 2 cây Lead. Tiêng đàn lúc thì thầm, lúc gào lên man dại ném chúng ta vào một thế giới mà chúng ta chưa bao giờ được biết . Một số người bảo rằng nhạc Iron rất khó hiểu và từ thành kiến đó họ cho rằng: Iron chơi nhẹ , không đủ phê…